LUẬT PHÁ SẢN NGÂN HÀNG: CÁI NHÌN ĐÚNG VỀ BẢO
HIỂM TIỀN GỬI
ThS. Phạm Thị Phương Thảo
Từ
khoá: Luật phá sản ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi
Lời mở đầu:
Ngày
15/01/2018, Luật sửa đổi bổ sung một số điều luật của tổ chức tín dụng năm 2010
chính thức có hiệu lực, cho phép giải thể phá sản các ngân hàng hoạt động yếu
kém. Lúc này, người gửi tiền mới chú ý quan tâm đến quyền lợi của mình sau khi
ngân hàng phá sản. Bên cạnh đó, Quyết định
21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 về hạn mức trả tiền bảo hiểm quy định tối đa là bảy
mươi lăm triệu đồng, đã tạo ra làn sóng “bất an” trong cộng người gửi tiền.
Bài viết này của tác giả với mục tiêu làm rõ vị trí, vai trò
của Bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời cũng phân tích và gợi ý phương thức gửi tiền
“an toàn” theo nhận định của tác giả.
Nội dung:
Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập từ năm
1999 và đi vào hoạt động năm 2000, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit
Insurance of Vietnam - DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động theo mô
hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn Điều
lệ. (1)
Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát sinh
kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc
văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả
năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng
Nhà nước có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi
trả cho người gửi tiền.
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người
được bảo hiểm tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi thanh toán trong các trường hợp sau:
a) Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo
hiểm của một người tại một tổ chức tham gia gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền
gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm. Hạn mức trả tiền bảo
hiểm trong từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (Quyết định
21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 về hạn mức trả tiền bảo hiểm quy định tối đa là
75 triệu đồng)
b) Trường hợp nhiều người sở hữu chung tiền gửi được gia bảo hiểm
tiền gửi:
- Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo
hiểm của nhiều người sở hữu chung tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm cho một
người. Số tiền bảo hiểm được trả sẽ được chia theo thỏa thuận của các đồng chủ
sở hữu; trường hợp giữa các đồng chủ sở hữu không có thỏa thuận hoặc không thỏa
thuận được thì giải quyết theo quy định của pháp luật;
- Trường hợp một trong các đồng chủ sở hữu có khoản tiền gửi khác
được bảo hiểm tại cùng một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thì tổng số tiền
bảo hiểm được trả cho một đồng chủ sở hữu không vượt quá hạn mức trả tiền bảo
hiểm.
c) Trường hợp người được bảo hiểm tiền gửi có khoản nợ tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi thì số tiền gửi được bảo hiểm là số tiền còn lại sau
khi trừ khoản nợ đó.
Khi
các tổ chức tín dụng tham gia Bảo hiểm tiền gửi phải đóng phí. Phí bảo hiểm tiền
gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam để bảo hiểm cho tiền gửi của người được bảo hiểm tiền gửi tại
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi theo đề
nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ
thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và
phân loại các tổ chức này.
Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp định kỳ hàng quý trong năm
tài chính, được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi
Ngoài
mức phí bảo hiểm tiền gửi kỳ phí đầu tiên của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
mới thành lập và hoạt động và mức phí đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
sau sáp nhập, hợp nhất thì bảo hiểm tiền gửi được tính định kỳ hàng quý
Công thức tính phí BHTG định kỳ hàng quý

Trong đó:
- P là số
phí bảo hiểm tiền gửi phải nộp của quý thu phí;
- S0 là số dư
tiền gửi được bảo hiểm đầu tháng thứ nhất của quý trước liền kề quý thu phí;
- S1, S2, S3 là
số dư tiền gửi được bảo hiểm cuối các tháng thứ nhất, thứ hai, thứ ba của quý
trước liền kề quý thu phí;
- m là mức phí bảo hiểm tiền gửi phải nộp.
Với cơ sở tính phí bảo hiểm tiền gửi là số dư bình quân tiền gửi
được bảo hiểm và mức phí bảo hiểm tiền gửi theo quy định. Số dư bình quân tiền
gửi được bảo hiểm là toàn bộ số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi
được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi của quý trước liền kề quý
thu phí.
Ví dụ: P là số phí bảo hiểm tiền gửi phải nộp của quý II/2018 thì:
S0 là số dư tiền gửi được bảo hiểm ngày đầu tháng 01/2018; S1 là số dư tiền gửi
được bảo hiểm ngày cuối tháng 01/2018; S2 là số dư tiền gửi được bảo hiểm ngày
cuối tháng 02/2018; S3 là số dư tiền gửi được bảo hiểm ngày cuối tháng 03/2018.
Nội dung trình bày đã phát hoạ những nét cơ bản về bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam giúp người đọc có cái nhìn khái quát về bảo hiểm tiền gửi. Sau đây,
tác giả xin đề cập đến vấn đề tiếp theo, khi ngân hàng phá sản thì người gửi
tiền được thanh toán tối đa là bao nhiêu và vì sao bảo hiểm tiền gửi không là
100% giá trị tiền gửi?
Theo mục 2 luật bảo hiểm tiền gửi quy định, tiền
gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức
tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi
quy định tại Điều 19 của Luật này.
Khi
ngân hàng phá sản thì theo Quyết định
21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản
tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi (bao gồm cả gốc
và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là
bảy mươi lăm triệu đồng”, bên cạnh đó người gửi tiền còn có thể được nhận lại
tiền gửi theo thứ tự phân chia tài sản quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật phá
sản như sau: (1) Chi phí phá sản; (2)
Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người
lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã
ký kết; (3) Khoản tiền gửi; khoản tiền tổ
chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại tổ chức tín dụng phá sản
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam;….
Như đã phân tích ở nội dung trên, hàng quý ngân hàng
phải đóng bảo hiểm tiền gửi và được tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng.
Nếu gia tăng con số này lên thì đây là một phần phí không hề nhỏ, và sẽ ảnh
hưởng đến lợi nhuận riêng của từng ngân hàng và lợi nhuận chung của cả ngành.
Theo
khuyến nghị của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế (IADI), hạn mức trả tiền bảo
hiểm phù hợp phải thỏa mãn đồng thời hai yếu tố: hạn mức phải đủ cao để bảo vệ
đại đa số người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ lẻ, có hiểu biết
hạn chế; hạn mức phải đủ thấp để đảm bảo kỷ luật thị trường và hạn chế những
rủi ro đạo đức xảy ra.
Ở
yếu tố thứ hai, nếu chi trả 100%, diễn giải của IADI là tình huống người gửi
tiền chỉ muốn gửi vào những ngân hàng có lãi suất cao mà không quan tâm đến rủi
ro, do đã có bảo hiểm tiền gửi chi trả 100%, và khi đó các ngân hàng chạy đua
lãi suất bất chấp rủi ro để thu hút người gửi tiền.
Không
những thế “tình huống” để khách hàng gửi tiền vào ngân hàng khi ngân hàng phá
sản và nhận lại được số tiền theo kịch bản xấu nhất là bảy mươi lăm triệu đồng
(giả sử người này gửi hơn con số bảy mươi lăm triệu đồng) theo cơ chế hiện nay
rất khó xảy ra. Vì muốn phá sản một ngân hàng, đầu tiên ngân hàng phải rơi vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt (thời gian vài năm), trong thời gian đó các cơ
quan ban ngành có liên quan xây dựng các phương án khắc phục. Trong trường hợp
không khắc phục được thì lại đến bước sáp nhập hợp nhất. Khi nào không thành
công thì sẽ đến phá sản. Không những vậy tại điều 146 khoản d quy định về khoản
vay đặc biệt trong giai đoạn tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt được vay
đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, … để ưu tiên hoàn
trả trước các khoản nợ khác.
Tóm lại:
“Luật
phá sản ngân hàng” là một hướng đi tất yếu trong nền kinh tế thị trường và
trong xu thế hội nhập thế giới. Vấn đề, là các cơ quan ban ngành cần có những
hướng dẫn và chính sách phù hợp để hỗ trợ người gửi tiền trong tình huống xấu
nhất. Đồng thời những người gửi tiền hãy là những người gửi tiền “thông minh”,
hãy lựa chọn cho mình những cách thức gửi tiền và lựa chọn cho mình những ngân
hàng uy tín.
Tài
liệu tham khảo
Luật
các tổ chức tín dụng 2010
Luật
bảo hiểm tiền gửi 2012
Luật
phá sản 2104
Luật
sửa đổi bổ sung một số điều luật tín dụng 2017
No comments:
Post a Comment